🌈 Gia Đình Phật Tử Là Gì

HỒ SƠ TÂM LÝ GIA ĐÌNH - KHI GIA ĐÌNH CHỈ LÀ VỎ BỌC "Năm lên 7 tuổi, bố mẹ em bỏ nhau. Sau đấy bố tái hôn, mẹ nuôi em. Công việc của mẹ rất bận, tính tình nóng nảy, thường xuyên đánh mắng em" - Trên thực tế, rất nhiều vấn đề tâm lý của chúng ta đều bắt nguồn từ những mâu thuẫn gia đình, nhưng Gia đình Phật tử; (Ajahn Sumedho nói về ) Thiền là gì ? Từ khóa được quan tâm. 1000 năm thăng long a na luat a nan dai ca diep de tu phat la hau la muc kien lien phu lau na phật tử séc thiền quán tim hieu dao phat tu bo de tìm hiểu đạo phật vo luong xa loi phat. Đối với mỗi một người trong chúng ta, bất kể là có tin Thần Phật hay không tin Thần Phật thì đều biết rõ rằng hình tượng của bậc Giác giả là lương thiện, là từ bi và bảo hộ chúng sinh. Ý chỉ của Phật là giáo huấn con người sống lương thiện, chân thành và khoan dung. Mọi người khi gặp nạn đều có thể khẩn cầu Thần Phật phù hộ. Mỗi loại có những chỉ định và cách dùng khác nhau cho từng vật phẩm hầu hết là nội thất gia đình, cửa, các vật về âm phần. Có rất nhiều người nghĩ rằng 3 thước lỗ ban đã kể ở trên là cùng một loại dẫn đến những sự nhầm lẫn vô cùng nghiêm trọng. Bàn thờ Phật tại gia. - Trước tiên, lựa chọn bình hoa đặt trên bàn thờ Phật cần lưu ý diện tích của ban thờ. Không lựa chọn bình hoa quá to khi kích thước ban thờ hẹp. - Số lượng bình hoa đặt trên bàn thờ Phật, tuỳ theo sở thích của gia chủ. Nếu gia chủ đặt Quần thể di tích, danh thắng Tây Yên Tử Bắc Giang là những địa điểm gắn với con đường hoằng dương Phật pháp của Phật hoàng Trần Nhân Tông; là những địa điểm du lịch tâm linh, sinh thái được nhiều người lựa chọn trong chuyến du Xuân. Số proton trong hạt nhân là đặc tính để xác định một nguyên tố hay còn gọi là số nguyên tử của nó. Phân tử là hạt đại diện cho chất có nhiều hơn hai nguyên tử, phân tử là sự liên kết của các nguyên tử với nhau và thể hiện đầy đủ tính chất hoá học của chất. Tử vị của bnam và nữ sinh năm Quý Mùi 2003 đều tương đối giống nhau. Cụ thể như dưới đây: Cung mệnh: mệnh Mộc, Dương Liễu Mộc (Nam: Càn Kim thuộc Tây tứ mệnh; Nữ: Ly Hoả thuộc Đông tứ mệnh) Tương sinh: Mệnh Hỏa, Thủy. Tương khắc: Mệnh Thổ, Kim. Tam hợp: Hợi Một là: Nhân sinh quan người Việt có đặc thù thường gắn bó với vận mệnh của dân tộc, các triết lý nhân sinh, truyền thống của người Việt đều giải đáp những vấn nạn mà người Việt gặp phải trong lịch sử đến nay trên con đường dựng nước và giữ nước, chống ngoại xâm của họ. obJm. Cổng thông tin Phật giáo thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Chủ quản Ban Thông tin Truyền thông Trung ương Giấy phép số 09/GP-TTĐT cấp ngày 04/04/2014 của Bộ TT&TT Chịu trách nhiệm nội dung Hoà thượng. TS Thích Gia Quang Trưởng Ban Biên tập Thiện Đức thienduc Kênh truyền hình Phật giáo Trụ sở P. 1702, Tòa nhà Comatce Tower, Số 61 Ngụy Như Kon Tum, P. Nhân Chính, Q. Thanh Xuân, Tp. Hà Nội. Văn phòng TW Giáo hội PGVN P216 Chùa Quán Sứ, 73 Quán Sứ, Hoàn Kiếm, Hà Nội Văn phòng đại diện phía Nam Văn phòng 2 TƯ Giáo hội PGVN, Thiền viện Quảng Đức, số 294 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Q3, TP. HCM Hotline 0987790751 Email info Loài vật vẫn có những loài sống thành đôi, thành cặp, có trống có mái, có đực có cái, cũng sinh con và cũng biết nuôi cho con của chúng lớn lên, đủ lông đủ cánh, biết săn mồi. Con người là một động vật cao cấp khác với loài vật vì con người có tư duy, có lao động và biết suy nghĩ trước khi hành động. Trong việc duy trì nòi giống, con người thương yêu nhau, kết hợp với nhau thành gia đình, sinh con, giáo dục con thành người có ích. Việc người nam và người nữ kết hợp với nhau thành vợ chồng đều phải thông qua hôn nhân, được gia đình, xã hội và luật pháp công nhận. Hôn nhân là kết quả của quá trình yêu đương giữa người nam và người nữ đã trưởng thành, là sự kết hợp với nhau thông qua sự chấp thuận của cha mẹ đôi bên, sự công nhận của pháp luật thông qua thủ tục đăng ký kết hôn. Từ đó, giữa họ hình thành một mối quan hệ mới là quan hệ gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là môi trường quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Trong xã hội, con người có nhu cầu tín ngưỡng và thực thi lý tưởng mà tự thân hướng đến. Chúng ta là những Phật tử, là những con người có niềm tin và làm theo những gì mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã chỉ dạy. Do đó, chúng ta càng phải có những nhận thức đúng đắn về hôn nhân-gia đình để xây dựng hạnh phúc phù hợp với giáo lý đạo Phật đồng thời phù hợp cuộc sống xã hội. 1- Quyền có hôn nhân và gia đình Đạo Phật là đạo giải thoát, giác ngộ. Bất cứ ai là Phật tử hay không Phật tử theo quan điểm của đạo Phật đều có quyền đi đến hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, những người đủ duyên để xuất gia, trở thành những nhà sư, tu sĩ thì nguyện sống một đời sống không gia đình, chiếm một số lượng rất nhỏ trong số tín đồ Phật giáo. Họ tự nguyện xa rời cuộc sống thế gian, không vướng bận vào vòng tình ái, vợ con. Cần nói rõ thêm, trước khi xuất gia, họ có quyền có hôn nhân, gia đình, vợ con. Nhưng khi đã xuất gia thì họ phải toàn tâm toàn ý tu học Phật pháp để trở thành người giác ngộ và giúp cư sĩ tại gia tu học. Những người chưa đủ duyên để xuất gia thì tu học tại nhà. Đạo Phật không ngăn cấm cư sĩ tại gia không được có tình yêu, hôn nhân và gia đình. Cư sĩ tại gia tin và tu theo giáo lý đạo Phật, sống cùng xã hội, tuôn theo luật pháp và đạo lý con người. 2-Phật tử tại gia có quyền có tình yêu, hôn nhân, gia đình Tình yêu trai gái là điều tự nhiên của con người. Con người được sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên. Khi đến tuổi trưởng thành, người nam và người nữ tự nhiên có tình cảm với người khác phái. Từ đấy, họ nẩy nở tình yêu. Tình yêu giữa người nam và và người nữ hoàn toàn không có gì là xấu xa. Đó là quy luật phát triển tự nhiên của con người. Không ai có thể ngăn cấm tình yêu trai và gái. Có những lề thói cổ hũ ngăn cấm đã dẫn đến những hâu quả khôn lường, mang lại nổi đau cho những người thân yêu, ruột thịt. Tình yêu và hôn nhân là chuyện bình thường của con người. Cha mẹ nuôi dưỡng con cái lớn khôn luôn mong mỏi con cái của mình tìm được “ý trung nhân” để xây dựng mái ấm gia đình hạnh phúc. Đức Phật không hề bác bỏ hay ngăn cấm người nam, nữ trưởng thành yêu nhau. Đức Phật khuyên dạy con người từ lúc yêu thương nhau đến lúc chung sống với nhau phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội, phải hợp với đạo lý làm người. Giáo lý nhà Phật đặt nền tảng trên tình thương yêu con người. Ngài dạy con người phải thương yêu nhau, mang lại niềm vui, an lạc cho nhau. Xây dựng cuộc sống hôn nhân, gia đình là phải mang lại hạnh phúc, niềm vui cho nhau , chứ không phải mang lại nỗi đau. Trong Kinh Đại Bảo Tích , Đức Phật đã dạy “Nếu một người đàn ông có thể tìm được một người vợ, người phụ nữ thích hợp và hiểu biết; người phụ nữ có thể tìm được một người chồng, người đàn ông thích hợp và hiểu biết, cả hai thực sự may mắn”. Như thế, Đức Phật đã nêu rõ nền tảng của hạnh phúc gia đình là sự hiểu biết lẫn nhau và phù hợp với nhau. Dân gian Việt Nam chúng ta nói nôm na là “Nồi nào vung nấy”, tức là sự phù hợp với nhau về tính cách, lối sống và sự cảm thông nhau. Sự phù hợp ở đây hoàn toàn không có nghĩa là “Môn đăng hộ đối” với hàm ý phân chia giàu nghèo, sang hèn. Nếu hai người không phù hợp với nhau mà phải chung sống với nhau thì rất khó có hạnh phúc. Tình yêu chân chính bao giờ cũng dẫn đến hôn nhân, tạo lập gia đình. Như thế hôn nhân phải luôn đi đôi với gia đình. Tình yêu không đi đến hôn nhân thì thường là mang đến nỗi sầu khổ đôi khi mang đến hận thù. Chuyện tình “Roméo và Juliet” là một câu chuyện lãng mạn về tình yêu. Chỉ vì mối thù giữa hai dòng họ, khiến cho họ không thể đến với nhau bằng hôn nhân, nàng Juliet tìm đến cái chết bằng thuốc độc, chàng Roméo tự vẫn bằng gươm. Ngày nay, cũng đôi khi đôi ban trẻ không được đến với nhau do gia đình ngăn cấm, họ cũng tìm đến cái chết. Thật thương thay ! 3-Hôn nhân- gia đình, hạnh phúc của người Phật tử Như trên đã nói, Phật tử ở đây là các cư sĩ tại gia. Khi đã có tình yêu thì người Phật tử có quyền tiến đến hôn nhân và lập gia đình. Giáo lý nhà Phật không can thiệp, ngăn cấm hay bó buộc gì giữa đôi trai, gái. Đạo Phật là đạo từ bi, hỷ xả, không cố chấp. Giáo lý đạo Phật không đòi hỏi phật tử của mình buộc người hôn phối phải từ bỏ đạo khác mới được kết hôn như một vài tôn giáo khác. Hai người nam nữ trưởng thành thương yêu nhau và tiến đến hôn nhân là một nhân duyên lớn. Khi tiến đến hôn nhân để có cuộc sống chung giữa hai người là bắt đầu một quá trình thử thách. Hôn nhân này có dẫn đến hạnh phúc hay khổ đau phụ thuộc rất nhiều vào đạo đức và nhân cách của hai người. Để có cuộc sống hạnh phúc, người Phật tử cần phải thực hiện những nguyên tắc đạo đức của con người, sống và thực hiện các quy định của pháp luật, trên hết người Phật tử cần phải nhớ kỹ và thực hành những lời Phật dạy. Về góc độ luật pháp, hôn nhân phải đảm bảo các nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng và bình đẳng. Vợ và chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, giúp đỡ nhau cùng nhau xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Vợ chồng tôn trọng và giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Vơ chồng tạo điều kiện cho nhau trong việc chọn nghề, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội theo nguyện vọng và khả năng mỗi người. Khi có con, cha mẹ có nghĩa vụ và quyền yêu thương, trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con, chăm lo việc học tập và giáo dục con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ và đạo đức. Về góc độ đạo lý con người Vợ chồng phải thương yêu nhau, quý trọng nhau và cùng nhau có trách nhiệm xây dựng gia đình hạnh phúc, nuôi dưỡng con cái thành người hữu ích. Về góc độ giáo lý đạo Phật, vợ chồng phải biết bao dung, chân tình, thương yêu và quý trọng lẫn nhau theo nếp sống xây dựng một đời sống gia đình hạnh phúc mà Phật đã dạy. Người chồng phải biết yêu thương, kính trọng và trung thành với người vợ, săn sóc chu đáo đời sống kinh tế của người vợ; thương yêu chưa đủ, hạnh phúc cần phải đáp ứng các nhu cầu cuộc sống. Người vợ phải thương yêu, kính trọng, chung thủy với chồng, khéo léo hành xử đối với những mối quan hệ của chồng và vui vẻ với làng giềng. Trong thời đại ngày nay, hạnh phúc của người Phật tử là phải biết hướng dẫn con cái trở thành Phật tử, biết tôn kính Tam bảo, biết đi chùa, thương yêu người, bố thí, bớt tham sân si….Con cái hiếu để, kính trọng ông bà, cha mẹ, lánh xa kẻ xấu ác và không làm điều ác, thường hay làm việc thiện. Phật tử là cư sĩ tại gia có nhiều trách nhiệm đối với xã hội làm công dân, làm người lao động, làm kinh tế, đối với gia đình làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, đối với bản thân thường xuyên tu dưỡng đạo đức, làm gương sáng cho con nên người Phật tử tại gia phấn đấu tu học làm một việc hết sức khó đúng với lời nói “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa”. Phật tử tại gia xây dựng được mái ấm gia đình hạnh phúc, làm kinh tế đủ sống hoặc dư giả, nuôi dạy con nên người, đồng thời vẫn có thời gian đến chùa nghe pháp, tu học thì đúng là một kỳ tích phi thường. 4- Những điều nên làm để có hạnh phúc trong hôn nhân-gia đình Khi trưởng thành, người nam và người nữ bắt đầu có tình yêu thì phải giữ gìn cho tình yêu trong sáng. Sự thương yêu nhau là hết sức cần thiết, song quan trọng hơn là biết kính trọng nhau. Sự kính trọng ngay những ngày yêu thương nhau sẽ làm nên tảng cho tình yêu lâu dài. Có kính trọng nhau mới vượt qua được sự ham muốn, giữ cho nhau sự trong sáng về mặt trinh tiết và phẩm hạnh. Nhiều bạn trẻ sớm đổ vỡ tình yêu vì đã quá hiểu rõ về nhau, cho nhau tất cả những gì cần phải gìn giữ cho hạnh phúc trước khi lập gia đình. Tạo điều kiện cho người bạn đời tương lai của mình hiểu biết về gia đình cha mẹ, anh em hai bên. Có hiểu về gia đình nhau mới thông cảm cho nhau, biết là gia đình người hôn phối có đạo lý, đạo đức như nhà minh không. Gặp nhà không biết đạo đức thì nên hướng dẫn họ sống đạo đức, nếu không được thì nên sớm nói lời chia tay trước khi quá muộn. Chọn người yêu phù hợp với mình, trước hết là phù hợp về tín ngưỡng. Không nên chọn người tôn giáo khác mà người ấy buộc mình phải bỏ đạo Phật mới tiến đến hôn nhân. Đạo Phật không đòi hỏi người yêu của mình bỏ đạo thì người yêu của mình cũng không được buộc mình phải bỏ đạo Phật. Như thế là mất công bằng và bình đẳng trước khi hai người trở thành vợ thành chồng. Trong hôn nhân mà không có bình đẳng ghì thật khó có hạnh phúc lâu dài. Nhiều cuộc hôn nhân với người khác tôn giáo đã cho thấy, họ cũng có hạnh phúc trong thời gian đầu, sau đó họ lục đục vì tranh chấp dạy dỗ con cái, cho con theo đạo nào và bản thân họ cũng mặc cảm bất an vì đã “bỏ đạo”. Nhiều người đàn ông vì muốn lấy được người mình yêu đã bỏ đạo, nhưng sau đó cũng bỏ cả “đạo theo” vì lương tâm cắn rứt, lúc ấy người hôn phối cũng mất hạnh phúc vì chồng vợ mình bị gia đình nhiếc mắng có thằng chồng con vợ phản đạo. Khi tiến đến hôn nhân và thành lập gia đình, cả vợ và chồng cần phải luôn có ý thức cộng đồng trách nhiệm trong tạo dựng hạnh phúc gia đình. Không phải chỉ một người nhường nhịn mà phải cả hai người cùng nhường nhịn lẫn nhau. Cuộc sống gia đình làm gì không có những mâu thuẩn to hay nhỏ, nếu chỉ vì một lời nói, một tự ái thiếu kìm chế thì cuộc sống hôn nhân sẽ đổ vỡ. Vợ chồng khi đã lấy nhau rồi cũng phải tiếp tục kính trọng như ngày chưa lấy nhau. Người Việt Nam ta có câu “ Tương kính như tân” Quý trọng nhau như mới gặp nhau. Có tôn trọng lẫn nhau thì sẽ không có người nầy xem nhẹ, xem thường người kia, không có lời nói của kẻ cả với vợ hay chồng mình. Khi được tôn trọng, vợ chồng sẽ có lời nói nhẹ nhàng, mang lại niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Vợ chồng nên giảm thiểu lới trách móc, chì chiết mà thay vào đó bằng lời nói yêu thương, nhẹ nhàng. Có thương yêu tôn trọng nhau thì vợ và chồng sẽ không dám có tư tưởng và hành động phản bội, thiếu thủy chung. Vợ chồng phải thành thật với nhau, vợ chồng tuy hai mà là một, tuy một mà là hai. Vợ chồng không được dấu diếm nhau điều gì Không có bí mật tư riêng. Vợ chồng chia sẻ niềm vui lẫn nỗi buồn sẽ giúp nhau giải quyết khó khăn, thông cảm nhau hơn và cùng nhau vượt qua khó khăn. Người chồng hay người vợ giấu diếm, che dấu điều gì sẽ khiến cho người hôn phối của mình cảm thấy bị lừa đối. Từ đấy sẽ mất niềm tin với nhau. Vợ chồng mà thiếu niềm tin thì hạnh phúc cũng kém bền vững. Vợ chồng phải có cách thức giáo dục con cái nên người. Con cái nên người, thành đạt là niềm hạnh phúc của gia đình. Nếu đứa con tốt thì cha mẹ hạnh phúc. Đứa con hư thì cha mẹ bất hạnh. Đức Phật dạy “Cha mẹ phải có bổn phận khuyên bảo con cái tránh xa điều xấu, làm điều tốt, tạo cho con cái có nền giáo dục tốt, tạo điều kiện cho chúng lập gia đình với người phù hợp”. Hôn nhân – gia đình là một hiện tượng xã hội, không chỉ luật pháp quy định chặt chẽ về hôn nhân gia đình mà đạo đức xã hội, giáo lý của các tôn giáo đều có những quy định để buộc công dân, tín đồ của mình tuân theo. Đạo Phật đã thấm nhuần vào trong cuộc sống của nhiều người dân, vì giáo lý đạo Phật thật sự tôn trọng tình yêu, hôn nhân và gia đình của con người. Pháp luật về hôn nhân và gia đình ở nước ta có nhiều nguyên tắc, trong đó có một nguyên tắc mà đạo Phật chú trọng, đó là nguyên tắc bình đẳng trong hôn nhân. Bình đẳng là nguyên tắc đảm bảo hạnh phúc lâu dài. Để có hạnh phúc, người Phật tử cần tin và làm theo lời Phật dạy, sống và hành động đúng theo đạo lý làm người, phù hợp quy định của luật pháp đem đến hạnh phúc an vui cho chính mình và cho mọi người. Cải cách là gì? Cải cách, hiểu nôm na là sự thay đổi, sự làm mới cho phù hợp với tình hình thực tế trong hiện tại. GĐPTVN đang cần những sự thay đổi, sự làm mới mình để theo kịp sự chuyển biến nhanh chóng từng ngày của xã hội VN. Từ cái nhìn Phật giáo, sự thay đổi của một cá nhân hoặc tổ chức cho phù hợp với dòng chảy cuộc sống là tuân theo định luật vô thường và tùy duyên bất biến. Điều này hoàn toàn tương ứng với các lý thuyết về quản trị của khoa học quản lý 1, theo đó, có thể phân chia các hình thức thay đổi thành các thể loại như sau • Thay đổi có tính kế hoạch, ngược với thay đổi mang tính đột khởi, • Thay đổi mang tính giai đoạn, ngược với thay đổi mang tính liên tục, • Thay đổi mang tính phát triển, quá độ hay chuyển hóa. Ở đây xin được miễn nêu ra tính chất, đặc điểm của các thể loại thay đổi. Riêng đối với quá trình cải cách sinh hoạt GĐPT, người viết nghĩ rằng đây là một sự thay đổi cần được lập kế hoạch cẩn thận, được thực hiện theo từng giai đoạn, lộ trình và hướng tới một mục tiêu chuyển hóa tổ chức sao cho phù hợp và hiệu quả nhất trong xã hội VN đương đại. Tại sao phải cải cách sinh hoạt GĐPT? Tại sao cần cải cách sinh hoạt GĐPT? Câu hỏi này đã được giải đáp một phần trong bài viết trước. Và 12 Lá Thư Huynh trưởng của tác giả Trần Kiêm Đoàn đăng trên Tạp chí Văn Hóa Phật Giáo cũng góp phần làm sáng tỏ rất nhiều lý do tại sao cần phải hiện đại hóa và đổi mới tổ chức GĐPT. Ở đây, nhằm tổng hợp tất cả các kiến giải về cơ sở lý luận để hiện đại hóa GĐPT, chúng tôi xin trình bày một phân tích SWOT Strengths – Điểm mạnh, Weaknesses – Điểm yếu, Opportunities – Cơ hội, Threats – Thách thức để đánh giá thực trạng GĐPTVN hiện nay. 2 SWOT là một mô hình đơn giản, dễ sử dụng nhằm giúp cho một tập thể tự nhìn vào bên trong bản thân mình để nhận diện đâu là điểm mạnh, điểm yếu đang có, đồng thời nhìn ra môi trường bên ngoài để xác định những cơ hội và thách thức xung quanh. Mô hình này giúp cho tập thể nhận ra được những khoảng trống giữa cái đang có và cái xã hội đang yêu cầu trong hiện tại và tương lai. Cải cách GĐPT, cải cách cái gì? Từ trước tới nay, khi nói đến việc cải cách sinh hoạt GĐPT, có nhiều ý kiến cho rằng cần điều chỉnh trang phục, cấu trúc lại các bộ môn sinh hoạt, biên tập lại tài liệu tu học các ngành, củng cố lại đội ngũ huynh trưởng Các ý kiến này đều xác đáng nhưng chưa mang tính thuyết phục vì chưa đưa ra được phương pháp luận để làm cơ sở xây dựng, dẫn đến các ý kiến mang nặng tính tiểu tiết, chủ quan và cảm tính. Trong thế kỷ 20 vừa qua, khoa học quản trị hiện đại đã giới thiệu nhiều phương pháp hữu ích nhằm giúp các cá nhân, tổ chức trả lời cho câu hỏi “Thay đổi cái gì, hiện đại hóa cái gì?”. Chúng tôi xin trình bày một phương pháp đơn giản và dễ áp dụng trong môi trường GĐPT, đó là phương pháp Cây Vấn Đề. Phương pháp Cây vấn đề Phương pháp này giúp chúng ta phân tích sâu vấn đề đang diễn ra để tìm ra nguyên nhân gốc rễ và nhận thức được hậu quả của vấn đề đó. Phương pháp này được ứng dụng hữu hiệu khi chúng ta liệt kê được càng nhiều càng tốt các vấn đề mà một đoàn thể đang gặp phải. Lấy ví dụ Một vấn đề lớn mà tổ chức GĐPT đang gặp phải là đa số các đơn vị GĐPT không giữ chân đoàn sinh ngành Thiếu được lâu dài. Các bước tìm hiểu về vấn đề này theo phương pháp Cây Vấn Đề được liệt kê như sau – Bước 1 Viết vấn đề trọng tâm ra giữa tờ giấy ứng với THÂN CÂY – Bước 2 Thảo luận nguyên nhân gây ra vấn đề và viết ý kiến xuống phần dưới tờ giấy theo các cấp độ nguyên nhân ứng với các tầng RỄ CÂY – Bước 3 Thảo luận những hậu quả của vấn đề và ghi ý kiến lên phía trên tờ giấy theo cấp độ hậu quả NGỌN CÂY Trong quá trình thảo luận, ta sử dụng ít nhất 5 lần câu hỏi Tại Sao để tìm ra nguyên nhân gốc rễ của vấn đề .3 Qua biểu đồ 1, chúng ta thấy phương pháp Cây Vấn Đề là một bài tập động não rất dễ hiểu, dễ sử dụng, thuận tiện cho việc áp dụng mọi lúc mọi nơi, từ trong buổi trò chuyện, họp định kỳ của đơn vị GĐPT cho đến việc áp dụng chính thức cho chuyên mục “Nhóm nghiên cứu cải cách sinh hoạt GĐPT”. Làm gì với kết quả của Cây Vấn Đề? Quá trình cải cách GĐPT cần phải thực hiện theo phương châm “được lập kế hoạch, mang tính giai đoạn và hướng tới chuyển hóa chất lượng thật sự”. Như vậy, sau khi bài tập Cây Vấn Đề đã được thực hiện xong và ví dụ chúng ta xác định được 10 vấn đề trọng tâm, nên chăng chung ta tập trung giải quyết cả 10 vấn đề cùng một lúc? Câu trả lời khôn ngoan chắc chắn là “Không!”. Thay vào đó, chúng ta phải thực hiện phương pháp xếp hạng ưu tiên trong 10 vấn đề để lựa chọn những vấn đề nòng cốt và khả thi nhất. Ví dụ, có thể chọn 5 vấn đề quan trọng nhất/khẩn cấp nhất/khả thi nhất theo bảng hướng dẫn sau. Cải cách sinh hoạt GĐPT – cải cách như thế nào? Sau khi đã đánh giá thực trạng hiện tại của tổ chức thông qua phương pháp phân tích SWOT Điểm mạnh – Điểm yếu – Cơ hội – Thách thức và sử dụng phương pháp Cây Vấn Đề để tìm hiểu nguyên nhân gốc rễ các vấn đề nóng bỏng nhất của tổ chức, bước tiếp theo quan trọng là xác định phương hương cải cách như thế nào. Muốn trả lời câu hỏi này, cần thực hiện ít nhất 4 công việc như sau Tổ chức khảo sát, lấy ý kiến đoàn sinh và phụ huynh Trước hết, ta cần thấy rằng, trong hoạt động của tổ chức GĐPT, đối tượng trung tâm là ai? Chắc chắn không phải là các bác Gia trưởng, các anh chị Liên đoàn trưởng, Huynh trưởng. Chính các em, các bạn Thiếu Nam, Thiếu Nữ, Nam nữ Oanh vũ mới là đối tượng trung tâm, là gốc gác của mọi sự đổi thay, và là hạt nhân nòng cốt nhất của quá trình cải cách sinh hoạt GĐPT. Đã từ rất lâu, người viết tự hỏi GĐPT đã tổ chức được bao nhiêu đợt khảo sát, lấy ý kiến đoàn sinh để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, cảm tưởng, nhận xét, nhu cầu của các em về mọi mặt hoạt động của tổ chức Áo Lam mà các em đã phát tâm gắn bó cuộc đời mình? Thực tế, có anh chị trưởng đã trao đổi với người viết là tại sao không thử đề xuất một vài mô hình mới lạ trong sinh hoạt GĐPT nhằm thu hút và giữ chân các em nhiều hơn với tổ chức và chia sẻ kinh nghiệm này với các đơn vị GĐPT bạn. Ý kiến này có 2 điểm đáng băn khoăn. Thứ nhất, việc đề xuất một vài mô hình nào đó dường như mang tính đột khởi, nhất thời và thiếu một phương pháp luận làm nền tảng vững chắc cho mọi sự thay đổi. Thứ hai, ý tưởng một khi chỉ đơn thuần xuất phát từ phía người huynh trưởng thì dù người đó có giỏi dang, nhạy bén đến bao nhiêu vẫn sẽ đi vào con đường áp đặt chủ kiến lên các em, làm điển hình cho một kiểu hoạt động “từ trên xuống” và đi ngược hoàn toàn với khuynh hướng “từ dưới lên” cũng chính là nguyên tắc lấy dân làm gốc trong đạo trị nước. Vì vậy, con đường cải cách mái nhà Lam phải được xuất phát từ chính các em đoàn sinh. Ý kiến của các em mới chính là những viên gạch lót đường đầu tiên cho con đường làm mới tổ chức GĐPT. Một khi nguyên tắc “Lấy đoàn sinh làm gốc” này đã được thống nhất cao trong tập thể huynh trưởng thì công việc tổ chức phỏng vấn, điều tra theo bảng hỏi, thảo luận chỉ là các yếu tố kỹ thuật. Ngoài ra, vì đối tượng của tổ chức GĐPT đa phần là thanh thiếu nhi nên việc quyết định gửi các em đến tổ chức GĐPT hay không phụ thuộc một phần rất lớn ở bố mẹ. Nhóm nghiên cứu cũng cần quan tâm đặc biệt đến đối tượng này. Khảo sát, lấy ý kiến từ huynh trưởng và những người quan tâm đến sinh hoạt GĐPT. Đây là đối tượng thứ hai của lộ trình hiện đại hóa tổ chức. Nội dung, phương pháp và cách thức tổ chức khảo sát, thảo luận sẽ cần được thiết kế sao cho phù hợp với các huynh trưởng và các thiện tri thức tâm huyết với sự nghiệp phát triển tổ chức GĐPT. Đặc biệt phải đảm bảo được rằng các kinh nghiệm quý báu trong đời và đạo của các anh chị đi trước sẽ được chắt lọc, giữ gìn và truyền đạt lại đầy đủ cho các thế hệ đàn em đi sau để làm hành trang khi đi vào một giai đoạn mới của lịch sử GĐPT. Nghiên cứu, học hỏi các kinh nghiệm hoạt động hiệu quả từ các đoàn thể thanh thiếu niên trong và ngoài nước. Trong Lá thư Huynh trưởng số 8, tác giả Trần Kiêm Đoàn nhận xét rằng sinh hoạt của GĐPT hiện tại đã rất cổ điển và có khuynh hướng già nua trong khung trời tuổi trẻ. So với nếp sinh hoạt thanh niên cởi mở, sáng tạo, độc lập và hồn nhiên của tuổi trẻ Âu, Mỹ trong các sinh hoạt đoàn thể trẻ như Hướng Đạo Boy scouts, Girl scouts; YMCA Young Men’s Christian Association – Thanh Niên Tin Lành; UNYA United Nations Youth Associations – Tuổi Trẻ Liên Hiệp Quốc… thì nếp sinh hoạt của GĐPT đang bị chững lại ở ngã ba đường của “sinh hoạt tu học” hơn là hoạt động thanh niên. Nói không xa, Hội Tuổi trẻ Phật tử Malaysia cũng là một điển hình đáng ngưỡng mộ trong phong trào tập hợp thanh thiếu niên Phật tử tại Đông Nam Á. Vậy, những tổ chức, hội đoàn đó đã làm cụ thể những gì để đạt được thành công như hôm nay? “Nhóm nghiên cứu cải cách sinh hoạt GĐPT” phải hết sức cầu thị, thậm chí là chủ động tiếp cận để nắm bắt thông tin và học hỏi kinh nghiệm từ các đoàn thể đó. Tổng hợp thông tin, công bố báo cáo khuyến nghị và đề xuất thử nghiệm mô hình trước khi áp dụng đại trà Để kết thúc lộ trình cải cách sinh hoạt GĐPT thành công, các nghiên cứu viên nòng cốt cần kết hợp kết quả khảo sát ý kiến của đoàn sinh, phụ huynh, huynh trưởng, các thiện tri thức với việc tìm hiểu các phương thức hoạt động tập hợp thanh thiếu niên hiệu quả tại VN và các nước, các tổ chức bạn. Sau đó, nhóm công tác tổng hợp thông tin, đăng tải trên website và chọn một dịp thích hợp, tổ chức một buổi thuyết trình báo cáo với BHDTƯ và đại diện các tỉnh thành về kết quả nghiên cứu và đề xuất khuyến nghị. Hẳn nhiên, mô hình cải cách và những điều chỉnh trong chương trình tu học sinh hoạt, nếu có, sẽ không có sự áp dụng đại trà mà sẽ thí điểm ở một số tỉnh, thành phố, sau đó, rút kinh nghiệm, điều chỉnh, bổ sung để có thể vừa mang tính phổ quát, vừa có đặc điểm linh hoạt tùy nghi áp dụng theo từng vùng miền, điều kiện, hoàn cảnh, kinh tế … của các đơn vị GĐPT ở các tỉnh, thành, khu vực. Nói tóm lại, theo lý thuyết quản trị hiện đại, giai đoạn hoàn thiện cuối cùng của lộ trình hiện cải cách sinh hoạt GĐPT cần thực hiện các bước liên tiếp, nối kết trong một vòng tròn theo tiến trình lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch; theo dõi, kiểm tra, phản hồi, đánh giá; điều chỉnh và bổ sung hoạt động. Quảng Tâm – Tôn Thất Kỳ Văn 1. Mintzberg, H. 1989 Mintzberg on Management inside our strange world of organisations. Chicago Free Press 2. Tự điển bách khoa toàn thư thế giới Wikipedia 2008 Giới thiệu về SWOT. 3. Senge, P., Kleiner, A., Roberts, C., Ross, R. B. and Smith, B. J. 994 The Fifth Discipline Fieldbook Strategies and Tools for Building a Learning Organisation. New York Doubled. Kính mời quý chư Tôn đức và độc giả tham gia ý kiến về vấn đề cải cách Gia đình Phật tử Việt Nam theo một số vấn đề sau – Vai trò của Gia đình Phật tử với sự phát triển của Phật giáo Việt Nam, đối với việc giáo dục thanh thiếu niên – Phân tích hiện trạng của Gia đình Phật tử Việt Nam hiện nay Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức mối đe dọa – Mô hình sinh hoạt của Gia đình Phật tử Việt Nam trong tương lai Mô hình tổ chức, nội dung sinh hoạt, hình thức sinh hoạt… – Hướng phát triển gia đình Phật tử tại các địa phương đặc thù hải ngoại, miền Bắc Việt Nam… Mọi ý kiến xin bấm vào đây, hoặc gửi email về địa chỉ trisu hoặc gọi điện thoại về số 095 3553777

gia đình phật tử là gì